Vi khuẩn HP dạ dày có lây không?
Thông thường vi khuẩn HP dạ dày lây qua 3 con đường như sau:
- Đường miệng – miệng: Đây là đường lây truyền chủ yếu của, lây lan do tiếp xúc nước bọt hay dịch tiết đường tiêu hóa của người mắc bệnh và người lành.
- Đường phân – miệng: Vi khuẩn đào thải qua phân và là nguồn lây lan sang cộng đồng, do thói quen sinh hoạt ăn đồ sống nên có thể bị nhiễm vi khuẩn HP.
- Đường khác: Có thể bị lây nhiễm do khám chung các thiết bị y tế như nội soi dạ dày, soi tai mũi họng, dụng cụ nha khoa,…
Vi khuẩn HP gây ra những thay đổi đối với dạ dày và tá tràng. Vi khuẩn lây nhiễm sang các mô bảo vệ lót dạ dày, dẫn đến việc giải phóng một số enzyme, chất độc và kích hoạt hệ thống miễn dịch. Kết hợp với nhau, những yếu tố này có thể trực tiếp hoặc gián tiếp làm tổn thương các tế bào của dạ dày hoặc tá tràng. Điều này gây ra tình trạng viêm mãn tính ở thành dạ dày (viêm dạ dày) hoặc tá tràng (viêm tá tràng). Kết quả của những thay đổi này là dạ dày và tá tràng dễ bị tổn thương hơn bởi các dịch tiêu hóa, chẳng hạn như axit dạ dày.
Vi khuẩn HP có thể lây nhiễm vào dạ dày người bệnh trong thời thơ ấu. Ở Mỹ hay các quốc gia phát triển khác, trẻ em bị nhiễm HP không phổ biến. Tuy nhiên, ở các quốc gia có nguồn lực hạn chế, hầu hết trẻ em bị nhiễm HP trước 10 tuổi.
Triệu chứng nhiễm vi khuẩn HP
Hầu hết những người bị nhiễm HP không có bất kỳ triệu chứng nào. Tuy nhiên, khi nhiễm trùng dẫn đến loét dạ dày hoặc tá tràng, một số triệu chứng sau có thể xuất hiện:
- Đau hoặc khó chịu (thường ở bụng trên)
- Phình hoặc trướng bụng
- Cảm thấy no sau khi ăn một lượng nhỏ thức ăn
- Chán ăn
- Buồn nôn hoặc nôn
- Phân sẫm màu hoặc màu hắc ín
- Vết loét chảy máu có thể gây thiếu máu và mệt mỏi.
Ít phổ biến hơn, viêm dạ dày mãn tính gây ra những thay đổi bất thường ở niêm mạc dạ dày, có thể dẫn đến một số dạng ung thư. Mặc dù tỷ lệ phát triển ung thư do nhiễm HP không cao, nhưng do nhiễm HP là tình trạng phổ biến nên nó vẫn được xem là yếu tố nguy cơ quan trọng gây ra ung thư dạ dày. Những người sống ở các quốc gia nhiễm HP khi còn nhỏ có nguy cơ mắc ung thư dạ dày cao nhất.
Chẩn đoán nhiễm vi khuẩn HP
Có thể phát hiện nhiễm vi khuẩn HP qua kiểm tra hơi thở, xét nghiệm máu và xét nghiệm phân là những phương pháp nhanh chóng, hiệu quả với độ chính xác cao. Ngoài ra nội soi dạ dày là phương phương pháp vừa đánh giá được tình trạng dạ dày vừa phát hiện nhiễm vi khuẩn HP.
1. Chẩn đoán nhiễm vi khuẩn HP bằng nội soi dạ dày
- Urease test (Clo test): Đây là phương pháp thường dùng nhất hiện nay. Kết quả kiểm tra có ngay trong vòng 30 – 45 phút.
- Sinh thiết – Mô học: Cần có thời gian để thực hiện các phương pháp khác chuyên sâu phục vụ cho việc đọc cấu trúc mô, tế bào và cũng có thể phát hiện được vi khuẩn HP.
- Nuôi cấy trong môi trường thí nghiệm đặc biệt, phân lập vi khuẩn, định danh và làm thí nghiệm về sự nhạy cảm của vi khuẩn với kháng sinh (gọi là kháng sinh đồ). Phương pháp này thường dùng cho trường hợp điều trị HP thất bại nhiều lần, hoặc để nghiên cứu.
- PCR (Polymerase Chain Reaction): Kỹ thuật khuếch đại gen. Thường phục vụ cho nghiên cứu, ít được sử dụng trong thực tế khám chữa bệnh.
2. Các phương pháp khác
- Kiểm tra hơi thở (Urea breath test): Thường gọi là xét nghiệm thổi bóng HP, dùng để kiểm chứng hiệu quả điều trị HP, hoặc trường hợp hạn chế nội soi.
- Kháng nguyên HP trong phân (HPSA)
- Kháng thể HP trong huyết thanh
Ai nên được kiểm tra vi khuẩn HP?
Xét nghiệm chẩn đoán nhiễm vi khuẩn HP sẽ được xem xét trong từng trường hợp cụ thể sau:
1. Ở những người có triệu chứng
Nên tiến hành xét nghiệm chẩn đoán nhiễm H. pylori nếu người bệnh đang bị loét dạ dày/ tá tràng hoặc có tiền sử bị loét.
Mặc dù nhiễm vi khuẩn HP là nguyên nhân phổ biến nhất gây loét, nhưng không phải tất cả bệnh nhân bị loét đều có vi khuẩn HP. Một số loại thuốc (ví dụ: aspirin, ibuprofen, naproxen, diclofenac…) cũng có thể gây loét dạ dày tá tràng.
2. Ở những người không có triệu chứng
Xét nghiệm vi khuẩn HP thường không được khuyến khích cho những người không có triệu chứng và không có tiền sử bệnh loét dạ dày tá tràng.
Điều trị nhiễm vi khuẩn HP
Nếu nhiễm vi khuẩn HP không gây ra bất kỳ vấn đề gì và người nhiễm không thuộc nhóm nguy cơ cao ung thư dạ dày thì có thể không cần điều trị.
Tuy nhiên, ở những người có tiền sử bệnh loét dạ dày tá tràng, loét dạ dày tiến triển hoặc loét tá tràng có liên quan đến nhiễm vi khuẩn HP, việc điều trị HP là cần thiết. Điều trị thành công HP có thể giúp vết loét mau lành, ngăn ngừa vết loét tái phát và giảm nguy cơ biến chứng loét (như chảy máu).
1. Phác đồ điều trị nhiễm vi khuẩn HP
Hầu hết các phác đồ điều trị HP hiện nay đều bao gồm ít nhất 3 loại thuốc trong 14 ngày:
- Các phác đồ diệt trừ HP thường dùng một loại thuốc gọi là chất ức chế bơm proton. Thuốc này làm giảm sản xuất axit của dạ dày, giúp chữa lành các mô bị tổn thương do nhiễm trùng. Ví dụ về thuốc ức chế bơm proton bao gồm: omeprazole, esomeprazole, pantoprazole, rabeprazole, lansoprazole, dexlansoprazole.
- Hai loại kháng sinh cũng thường được khuyến cáo. Điều này làm giảm nguy cơ thất bại trong điều trị và giảm kháng thuốc. Ngày càng có nhiều bệnh nhân nhiễm vi khuẩn HP kháng lại thuốc kháng sinh, vì vậy điều quan trọng là phải uống tất cả các loại thuốc được kê đơn và làm xét nghiệm xác nhận rằng đã hết nhiễm trùng.
Để điều trị HP có hiệu quả, điều quan trọng là phải dùng toàn bộ liệu trình của tất cả các loại thuốc. Bệnh nhân không nên tự ý bỏ thuốc hoặc thay đổi liều lượng vì điều này sẽ khiến vi khuẩn không được diệt trừ hết, gây kháng thuốc, lờn thuốc, khó điều trị hơn. Nếu người bệnh muốn dùng thêm thuốc hoặc các phương pháp hỗ trợ điều trị khác, cần hỏi ý kiến bác sĩ trước khi sử dụng.
2. Tác dụng phụ của thuốc điều trị
Khoảng 50% người bệnh có thể gặp phải một số tác dụng phụ khi sử dụng thuốc. Tuy nhiên, không cần quá lo lắng vì chúng thường nhẹ và không ảnh hưởng đến quá trình điều trị. Dù vậy, nếu các tác dụng phụ này gây khó chịu, người bệnh có thể trao đổi với bác sĩ để điều chỉnh liều lượng hoặc thời gian dùng thuốc.
Một số tác dụng phụ phổ biến bao gồm:
- Metronidazole hoặc tinidazol có thể gây buồn nôn, nôn mửa, ăn không ngon, đau bụng, khó chịu nơi thượng vị, đầy hơi, khó tiêu, táo bón, thay đổi vị giác tạm thời. Đặc biệt, nếu trong phác đồ điều trị có metronidazole, người bệnh nên tránh uống đồ uống có cồn (rượu, bia) vì sự kết hợp này có thể gây đỏ da, nhức đầu, buồn nôn, nôn, đổ mồ hôi và nhịp tim nhanh.
- Bismuth, có trong một số chế phẩm, khiến phân có màu đen và có thể gây táo bón.
- Nhiều chế độ điều trị gây tiêu chảy và co thắt dạ dày.
3. Theo dõi sau điều trị
Sau khi hoàn thành điều trị HP, người bệnh sẽ cần xét nghiệm lại để đảm bảo rằng tình trạng nhiễm trùng đã khỏi hoàn toàn. Thông thường, người bệnh sẽ tiến hành kiểm tra bằng xét nghiệm hơi thở. Xét nghiệm máu không được khuyến khích để kiểm tra tình trạng nhiễm khuẩn HP sau điều trị, bởi kháng thể được phát hiện bằng xét nghiệm máu thường vẫn còn trong máu từ bốn tháng trở lên sau khi điều trị, ngay cả khi đã loại bỏ nhiễm trùng.
Thống kê cho thấy, có tới 20% người bệnh vẫn không được diệt trừ hết HP sau khi hoàn thành đợt điều trị đầu tiên, bác sĩ sẽ khuyến nghị phác đồ điều trị thứ hai trong trường hợp này. Bệnh nhân sẽ dùng thuốc ức chế bơm proton trong 14 ngày và hai loại thuốc kháng sinh, trong đó có ít nhất một loại thuốc kháng sinh khác với những loại thuốc đã được sử dụng trong đợt điều trị đầu tiên.
Biện pháp ngăn ngừa lây nhiễm HP
- Rửa tay bằng xà phòng đúng cách sau khi đi vệ sinh và trước khi ăn
- Không tiêu thụ các thực phẩm chưa được nấu chín kỹ hoặc có dấu hiệu ôi thiu, mốc, nhiễm khuẩn
- Uống nước sạch và sử dụng nước sạch trong quá trình chế biến thức ăn (điều này cần đặc biệt lưu ý nếu sinh sống trong khu vực có nguồn nước bị ô nhiễm).
- Hạn chế tiêu thụ thực phẩm tại các quán vỉa hè, không đảm bảo yếu tố vệ sinh an toàn thực phẩm.
Để điều trị nhiễm vi khuẩn HP dứt điểm, tránh tái phát, người bệnh cần nghiêm túc tuân theo phác đồ điều trị của bác sĩ, uống thuốc đúng giờ, đúng liều, đồng thời xây dựng một chế độ ăn uống lành mạnh, hợp vệ sinh để nhanh khỏi bệnh.
PHÒNG KHÁM CHẨN ĐOÁN MEDIC SÀI GÒN TẠI ĐÀ NẴNG là địa chỉ uy tín, cung cấp dịch vụ xét nghiệm H.Pylori nhanh chóng và chính xác.